Chất ô nhiễm khó phân hủy, như các loại nhựa, kim loại nặng, và hóa chất công nghiệp, đang trở thành mối đe dọa nghiêm trọng đối với môi trường và sức khỏe con người. Để giảm thiểu tác động tiêu cực của những chất thải này, các quy định pháp luật về quản lý và xử lý đã được ban hành nhằm kiểm soát và ngăn ngừa ô nhiễm. Môi trường Ánh Dương sẽ giải thích chi tiết các quy định trong bài viết dưới đây.
Thế nào là chất ô nhiễm khó phân huỷ?
Căn cứ nội dung tại khoản 16 Điều 3 Luật Bảo vệ môi trường số 72/2020/QH14 thì:
Chất ô nhiễm khó phân hủy được hiểu là loại chất ô nhiễm có độc tính cao, khó được phân hủy, chất này có khả năng tích lũy sinh học và được lan truyền trong môi trường, đồng thời chất ô nhiễm khó phân hủy được xác định là có tác động xấu đến môi trường cũng như sức khỏe con người.
Chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy được đề cập tại Công ước Stockholm (tiếng Anh: Persistent organic pollutant, viết tắt: POP) là các hợp chất hữu cơ khó bị phân hủy bằng các quá trình hóa học, sinh học và quang phân ly. Hầu hết các POP là thuốc bảo vệ thực vật hoặc thuốc trừ sâu, và một số loại là dung môi, dược phẩm và hóa chất công nghiệp.
Các quy định về quản lý chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy
Khoản 1 Điều 69 Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 quy định những yêu cầu về bảo vệ môi trường trong quản lý chất ô nhiễm khó phân hủy và nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu, sản phẩm, hàng hóa, thiết bị có chứa chất ô nhiễm khó phân hủy như sau:
- Không được sản xuất, xuất khẩu, nhập khẩu và sử dụng chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy và nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu, sản phẩm, hàng hóa, thiết bị có chứa chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy thuộc Phụ lục A của Công ước Stockholm có hàm lượng vượt giới hạn tối đa cho phép theo quy định của pháp luật, trừ chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy đã được đăng ký miễn trừ theo quy định của Công ước Stockholm;
- Phải kiểm soát nguồn phát sinh và công bố thông tin, dán nhãn, đánh giá sự phù hợp, kiểm tra đối với chất ô nhiễm khó phân hủy và nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu, sản phẩm, hàng hóa, thiết bị có chứa chất ô nhiễm khó phân hủy theo quy định của pháp luật;
- Chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy và nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu, sản phẩm, hàng hóa, thiết bị có chứa chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy vượt giới hạn tối đa cho phép theo quy định của pháp luật được phép tái chế, tiêu hủy, với điều kiện việc tái chế và tiêu hủy không dẫn đến thu hồi các chất này để tái sử dụng và phải bảo đảm yêu cầu về bảo vệ môi trường;
- Chất ô nhiễm khó phân hủy và nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu, sản phẩm, hàng hóa, thiết bị có chứa chất ô nhiễm khó phân hủy vượt giới hạn tối đa cho phép phải được lưu giữ, thu hồi, quản lý và xử lý đáp ứng yêu cầu về bảo vệ môi trường theo quy định, trừ trường hợp đã tái chế, tiêu hủy theo quy định tại điểm c khoản này;
- Chất ô nhiễm khó phân hủy và nguyên liệu, nhiên liệu vật liệu, sản phẩm, hàng hóa, thiết bị có chứa chất ô nhiễm khó phân hủy phải được cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ báo cáo về chủng loại và kết quả tính toán lượng chất ô nhiễm phát thải vào môi trường nước, không khí, đất theo danh mục và chuyển giao xử lý để quản lý thông tin, đánh giá, quản lý rủi ro môi trường theo quy định của pháp luật;
- Khu vực tồn lưu, ô nhiễm các chất ô nhiễm khó phân hủy phải được đánh giá, xác định, cảnh báo rủi ro và đề xuất biện pháp quản lý an toàn, xử lý và cải tạo, phục hồi môi trường.
Theo điểm a Khoản 2 Điều 69 Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 thì tổ chức, cá nhân có trách nhiệm thực hiện yêu cầu nêu trên.
Quy định về xử phạt vi phạm trong quản lý chất ô nhiễm khó phân huỷ
Căn cứ theo quy định tại khoản 8 Điều 23 Nghị định 155/2016/NĐ-CP quy định xử lý trong hoạt động các chất ô nhiễm khó phân hủy như sau:
Phạt tiền từ 500.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây, trừ các trường hợp hành vi tội phạm về môi trường:
- Chuyển giao, cho, mua, bán chất hữu cơ khó phân hủy cần phải loại trừ theo quy định tại Phụ lục A Công ước Stockholm về các chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy trái quy định của pháp luật;
- Chôn, lấp, đổ, thải ra môi trường chất hữu cơ khó phân hủy cần phải loại trừ theo quy định tại Phụ lục A Công ước Stockholm về các chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy trái quy định của pháp luật dưới 3.000 kg.
Ngoài ra còn bị áp dụng hình phạt bổ sung như sau:
Căn cứ theo quy định tại điểm d, đ khoản 9 Điều 23 Nghị định 155/2016/NĐ-CP (được sửa đổi bởi điểm i khoản 21 Điều 1 Nghị định 55/2021/NĐ-CP) như sau:
- Đình chỉ hoạt động của cơ sở từ 12 tháng đến 24 tháng đối với trường hợp vi phạm quy định tại khoản 8 Điều này;
- Tịch thu phương tiện vi phạm hành chính đối với trường hợp vi phạm quy định tại khoản 7 và khoản 8 Điều này.
Yêu cầu khắc phục hậu quả vi phạm
Căn cứ theo quy định tại khoản 10 Điều 23 Nghị định 155/2016/NĐ-CP (được bổ sung bởi điểm k khoản 21 Điều 1 Nghị định 55/2021/NĐ-CP) như sau:
- Buộc chuyển giao chất thải nguy hại cho đơn vị có chức năng xử lý đối với trường hợp vi phạm quy định tại điểm đ khoản 5 và khoản 6 Điều này
- Buộc khôi phục lại tình trạng môi trường ban đầu do hành vi vi phạm quy định tại khoản 7 và khoản 8 Điều này gây ra;
- Buộc chi trả kinh phí trưng cầu giám định, kiểm định, đo đạc và phân tích mẫu môi trường trong trường hợp có vi phạm về xả chất thải vượt quy chuẩn kỹ thuật môi trường hoặc gây ô nhiễm môi trường theo định mức, đơn giá hiện hành đối với các vi phạm quy định tại Điều này;
- Buộc phải thực hiện các biện pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường và báo cáo kết quả đã khắc phục xong hậu quả vi phạm trong thời hạn do người có thẩm quyền xử phạt ấn định trong quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với các vi phạm quy định tại Điều này gây ra.
Như vậy, đối với việc xử lý quản lý bảo vệ môi trường trong quản lý các chất ô nhiễm khó phân hủy thì mức xử phạt từ 500.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng. Ngoài ra, còn bị áp dụng các biện pháp xử phạt bổ sung và khắc phục hậu quả.